Theo FORLAND, hiện một số địa phương sau khi giao đất rừng cho người dân vẫn chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Kết quả tham vấn cho thấy, có 12 cộng đồng (52% cộng đồng được khảo sát) chưa được cấp GCNQSDĐ sau khi được giao rừng.
Các chuyên gia cho rằng, cần có qui định cấp GCNQSDĐ đất khi giao rừng cho cộng đồng để quy rõ trách nhiệm, cũng như tránh xảy ra tranh chấp. Nhưng cũng có ý kiến quan ngại, giao “sổ đỏ” hôm trước, hôm sau dân đã bán, nhất là liên quan đến đất rừng tự nhiên khiến nguy cơ mất rừng càng cao.
Ông Vũ Long, Hội Khoa học kỹ thuật lâm nghiệp Việt Nam cho biết, thực tế, quyền sử dụng đất rừng
rất hạn chế, “sổ đỏ” đất rừng tự nhiên không được “cắm” để vay vốn nên người dân cho là không có giá trị như “sổ đỏ” đất sản xuất nông nghiệp, đất thổ cư hay đất trồng rừng sản xuất. Tác động của hộ gia đình đối với rừng tự nhiên là rất ít, chủ yếu là hoạt động trông coi rừng.
Đại diện Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bình Định cũng phản ánh, sau 2 năm Bình Định thí điểm giao rừng tự nhiên cho người dân quản lý thì 100% hộ dân “làm đơn xin trả lại rừng” tự nhiên được giao với lý do “bảo vệ rừng mệt quá mà lại làm không công cho Nhà nước”. Song nếu cho phép chuyển nhượng đất rừng tự nhiên được giao thì “sẽ thành rừng của đại gia” nên cần cân nhắc.
Theo các chuyên gia, khi sửa đổi Luật Bảo vệ và Phát triển rừng cần tăng cường sự tham gia của đại diện cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong lập quy hoạch, kế hoạch phát triển rừng để chính quyền thì quản lý, bảo vệ được rừng, còn người dân, cộng đồng có thể thực hiện đầy đủ quyền quản lý của mình.Hơn nữa, cần chú ý đến dịch vụ môi trường rừng để buộc xã hội đầu tư lại cho môi trường rừng, chống mất rừng. Vì ngành Lâm nghiệp không thể cứ mãi “xin” tiền Nhà nước khi đất rừng đã giao cho dân quản lý.
FORLAND còn khuyến nghị, cần luật hóa việc chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với các đối tượng rừng có nguy cơ bị xâm phạm. Cùng với đó, phân tích lại cách chi trả theo lưu vực sông để rừng không bị “phân mảnh” hoặc làm phát sinh mâu thuẫn trong cộng đồng do mức chi trả chênh lệch giữa các diện tích rừng trong cùng một lưu vực sông.
Thống kê cho thấy, qua 5 năm thực hiện, tổng nguồn thu từ chi trả dịch vụ môi trường rừng ước tính đạt được 1.782 tỉ đồng (chiếm 0,8% ngân sách đầu tư lâm nghiệp). Hiện mới có 2 dịch vụ được thực hiện là dịch vụ phòng hộ đầu nguồn và dịch vụ du lịch sinh thái do thiếu các cơ sở pháp lý và hướng dẫn chi tiết. Việc giải ngân từ Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tới những người cung cấp dịch vụ môi trường rừng chỉ đạt tỷ lệ khá khiêm tốn (46%).
Thảo Nguyên